Hướng dẫn soạn bài Viết bài làm văn số 2 Nghị luận văn họcdưới đây sẽ gợi mở cho các em những gợi ý cần thiết và đầy đủ cho các đề bài mẫu trong SGK, Hi vọng từ những gợi ý soạn bàiViết bài làm văn số 2 Nghị luận văn học, các em sẽ có thêm những kiến thức thú vị, hay và tự tin hơn đến với Văn mẫu 11 Nghị luận xã hội lớp 11. 👉 Nghị luận về một tư tưởng đạo lí; 👉 Nghị luận về một hiện tượng đời sống; Tập làm văn lớp 11. 👉 Viết bài làm văn số 1; 👉 Viết bài làm văn số 2; 👉 Viết bài làm văn số 3; 👉 Viết bài làm văn số 5; Nghị luận Bài viết số 3 lớp 11 đề 1: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn thơ: Đầu lòng hai ả tố nga…Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Bài viết số 3 lớp 11 đề 2: “Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ ví dụ bài văn lớp 11 # 2 chủ đề 3 dàn ý bài văn số 2 lớp 11 mục 3 (phác thảo nhân vật Khổng Tử có thật trong bài ca ngắn đi trên cát) 1. mở đầu . Bạn đang xem: Viết bài văn số 2 lớp 11 – giới thiệu sơ lược về tác giả cao ba và tác phẩm “khúc ngắn trên bãi cát”. Dàn bài viết số 2 lớp 11 đề 2. 1. Mở bài. – Giới thiệu hình tượng ng phụ nữ trong văn học nói chung. – Cảm hứng về ng phụ nữ trong tự tình, của HXH và thương vợ của trần tế xương. 2. Thân bài. – Thời đại hoàn cảnh, nội dung cơ bản trong thơ của 2 tác giả trên Viết bài tập làm văn số 2 lớp 11 BÀI VIẾT SỐ 2 (Nghị luận xã hội) Viết đoạn văn nghị luận về những cách thức chống gian lận trong thi cử. Viết đoạn văn nghị luận về ý kiến vào đại học không phải là con đường lập thân duy nhất. Viết đoạn văn nghị luận về kmJVAj. Bài tập làm văn bài viết số 2 lớp 11 bao gồm dàn ý bài viết số 2 lớp 11 và các bài văn mẫu tuyển chọn cho bài viết số 2 lớp 11 đề 1, bài viết số 2 lớp 11 đề 2, bài viết số 2 lớp 11 đề 3, bài viết số 2 lớp 11 đề 4. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh viết bài tập làm văn số 2 lớp 11 hay nhất. Bài viết số 2 lớp 11 đề 1 Đề bài Cảm nghĩ của anh chị về giá trị hiện thực của đoạn trích vào phủ chúa trịnh Dàn ý bài viết số 2 lớp 11 đề 1 1. Mở bài – Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm của đoạn trích Nêu luận điểm của đề VD Không chỉ là một danh y lỗi lạc, Lê Hữu Trác còn là một văn nhân văn nhân tài ba của nước ta ở TKXVIII. Nhắc đến ông không thể không nhắc đến “Thương kinh kí sự”. Tác phẩm phản ánh hiện thực sâu sắc cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền huy tột bậc của nhà chúa. Giá trị ấy đặc biệt được thể hiện qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”. 2. Thân bài Triển khai vấn đề Bức tranh chân thực về cuộc sông xa hoa, giàu sang, quyền huy tột bậc của nhà chúa + Cảnh vật nơi phủ chúa mới lộng lẫy xinh xắn làm sao Đâu đâu cũng là cây cố um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Tất cả điều là kì hoa dị thảo, toàn là những thú quý hiếm mà chỉ có ở nơi đây. Chưa hết thành quách nơi đây mới thực sự là lấu son gác tía. Cung cách xây dựng thật công phu với những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau. Nó tạo cho phủ chúa sự lộng lẫy, nguy nga tráng lệ thật giàu sang mà cũng thật trang nghiêm. – Bên trong nội cung toàn là những thứ quý hiếm như mâm vàng, chén bạc, ghế rồng, sập vàng, màn là, trướng gấm toàn những thứ “nhân gian chưa từng thấy”. Cảnh nơi phủ chúa đẹp và giàu sang đến mức tác giả phải thốt lên “Cả trời Nam sang nhất là đây”. Trong lúc đời sống của muôn dân lầm than cơ cực thì cảnh sống nơi phủ chúa mới thật xa xỉ làm sao. Điều này chính là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. tác giả đã tỏ ra khen ngợi nhưng vẫn dửng dưng không hề bị quyến rủ bởi sự giàu sang nơi phủ chúa. + Cung cách sinh hoạt Để vào hậu cung, tác giả phải đi qua nhièu lần cửa với những thủ tục rườm rà, nhiêu tưởng cứu bệnh như cứu hỏa vậy mà tác giả lại phải lui ra chờ vì “thánh thượng đang ngự ở đó”. Ông ta còn đang say sưa hưởng lạc với các cung tần mĩ nữ. Xung quanh chúa cha và chúa con có biết bao kẻ hầu người hạ, mặt hoa da phấn, đi lại lặng lẽ như những cái bóng. – Nơi ở của thế tử cũng thật khác thường Phải qua 5-6 lần trướng gấm, nơi ở tối om, ngột ngạc và thiếu sinh khí. Người ta vì đói ăn thiếu mặc mà bệnh hoạn, ốm yếu đã đành, đây lại vì “ăn quá no, mặc quá ấm” dư thừ về vật chất mà ốm yếu mới thật đau xót làm sao. Chính tác giả cũng cho ngừoi đọc hiểu rõ căn nguyên cơ thể ốm yếu, héo hon, gầy mòn của chúa nhỏ chính là kết quả của lối sống xa hoa giàu sang mà thiếu khs trời và không khí tự do. Cách sống nơi và sinh hoạt nơi phủ chúa càng làm nổi bậc giá trị hiện thực của tác phẩm và đoạn trích. 3. Kết bài – Khẳng định lại vấn đề và liên hệ bản thân Bài văn mẫu bài viết số 2 lớp 11 đề 1 Bài mẫu 1 “Con ơi nhớ lấy câu này Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Bọn vua chúa phong kiến đa số là những tên cướp ngày. Chúng cướp của nhân dân một cách công khai bằng đủ thủ đoạn tàn ác để vinh thân phì gia, để hưởng thụ cuộc sống. Lên Hữu Trác, một danh y lỗi lạc, một văn nhân tài ba của nước ta ở thế kỉ XVIII đã một phần nào nói lên được thực trạng này qua tác phẩm Thượng kinh kí sự. Trong kí sự này, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh có một giá trị hiện thực sâu sắc khi phản ánh được cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền uy tột bậc của nhà chúa. Thượng kinh kí sự nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782, nội dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được vời ra kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động và sắc sảo, tác giả đã phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp vua chúa phòng kiến, đồng thời kín đáo bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của mình. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất,trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo. Mở đầu bài kí là Khung cảnh giàu sang, đẹp đẽ hiếm có cùa phủ chúa Trịnh được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong lòng tác giả Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thấm, gió đưa thoang thoảng mùi hương… Tôi nghĩ bụng Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường! Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi”. Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ. Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, mỗi bước đều có người của phủ chúa đi theo. Trên đường đi, ông để ý ghi nhận từng sự vật Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”. Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lặ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp. Càng vào sâu bên trong, sự ngạc nhiên của tác giả càng lớn Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đổ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đổ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng. Đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bạc lầu vàng mà dân chúng chĩ có thể thấy trong truyện thần tiên hoặc trong tưởng tượng mà thôi. Bài mẫu 2 Chúng ta thường biết đến Hải Thượng Lãn Ông là một người thầy thuốc thế nhưng ông còn là một nhà văn nữa. Cuộc đời ông sáng tác không nhiều những đã để lại những tác phẩm có giá trị và giàu ý nghĩa. Tiêu biểu đó là tác phẩm vào phủ chúa Trịnh. Có thể nói qua tác phầm ấy giá trị hiện thực được thể hiện rất rõ. Trước hết vào phủ chứa Trịnh được xảy ra trong hoàn cảnh triều đình chúa Trịnh Sâm vời Lê Hữu Trác vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán. Mặc dù bản thân không muốn những ông vẫn phải vào theo lệnh chúa. Và những hiện thực nơi đây được nhìn qua con mắt của ông khiến cho chúng ta thấy được cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào. Hiện thực phủ chúa được tác giả miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là những cách thức trong cung nữa. Mọi thứ nơi đây hiện lên thật sự rất cụ thể. Trước hết là quang cảnh nơi đây, bước chân vào phủ chúa tác giả không hết khen ngợi bởi sự xa hoa sang trọng nơi đây. Nào là những cây cối mà chưa thấy ở đâu, những cây cối ấy toàn những của quý, cây quý cả. Quý như thế mà trong phủ chúa lại có rất nhiều rất um tùm nữa. Phải nói qua đây ta thấy cuộc sống nơi đầy giàu sang phú quý. Không chỉ có những loại cây quý hiếm để làm cảnh đẹp nơi đây thêm phần sang trọng mà phủ chúa còn có những loài chim cũng quý nữa. Nào là danh hoa đua thắm nào là chim kêu véo von. Có thể nói mới đặt chân vào phủ chúa mà tác giả đã vẽ lên những hiện thực nơi phủ chúa sang trọng với những loại cây, loài chim quý hiếm. Đó hẳn là người giàu sang lắm mới có thể trồng những danh hoa kia trong nhà. Không những thế càng đi sâu vào trong phủ thì Lê hữu Trác càng vẽ lên khung cảnh chúa với sự xa hoa mỹ lệ. Tác giả thấy nhưng không hám muốn danh lợi, đặc biệt ông cũng thể hiện thái độ không thích sống một cuộc sống tiện nghi quá như thế. Phải chăng chính vì tiện nghi quá cho nên thế tử kia mới mắc bệnh tật. Khung cảnh phủ chúa được tiếp tục thể hiện qua những đại đường, quyền bổng. Ở đây người ta thấy được những màu vàng chói lọi. Có thể nói màu vàng thể hiện sự giàu sang phú quý và chính vì thế mà trong phủ chúa những vật từ nhỏ cho đến lớn đều được sơn son thiếp vàng. Cuộc sống vua chúa nơi đây quả thật chẳng khác nào thiên đường mà nhiều người muốn. Từ những cây cột ở đại đường đều được sơn thếp sơn vàng. Hay là những đũa chén, mâm ăn cơm, những vật dụng tưởng chừng nhỏ bé bình thường ấy cũng được mạ vàng. Nếu như có những mâm vàng chén bạc quý giá thì người ta chỉ để làm vật quý giá trưng bày mà thôi thế mà ở đây là một vật dụng để ăn cơm. Có được một thứ mạ vàng hay bằng vàng là một sự quý giá lắm rồi thế mà ở đây từ vật to đến vật lớn đều là vàng cả. Cuộc sống hiện lên thật sự đầy đủ và giàu sang. Không những thế cung cách trong cung cũng phần nào thể hiện được giá trị hiện thực của tác phẩm này. Để vào được trong cung thì phải qua nhiều lần bẩm báo trong phủ thì mới được vào. Những thứ của chúa thì gọi là thánh giống như là nhà vua vậy. Lê Hữu Trác vào cung vì có thánh chỉ cũng cần phải qua nhiều cửa mới đến nơi. Mọi người ở đây cung kính với chúa. Riêng bản thân chúa Trịnh Sâm thì có biết bao nhiêu là cung tần mĩ nữ vây quanh mình để chờ được hầu hạ ngài. Có thể nói cuộc sống ấy đúng là cách sống của những bậc vua chúa. Tuy nhiên sống như thế thì lấy tiền ở đâu ra?. Không những thế khi vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán thì dù chỉ mà một đứa trẻ trong cung vậy thôi nhưng những người ngự y dù đã rất già cũng phải vái lạy thái tử rồi mới được bắt mạch kê đơn. Căn phòng ấy cũng khá lộng lẫy, thái tử thì ở sau những bức chướng gấm quý giá như để che chở lấy tấm thân gọi là ngọc ngà kia. Những ngự y túc trực quanh đó và cuối cùng Lê hữu Trác đã tìm ra phương thuốc để chữa bệnh cho Trịnh Cán. Trước những sự phản đối của đa số những thầy thuốc trong cung Lê Hữu Trác vẫn thể hiện sự uyên thâm của bản thân mình khiến cho những ngự y kia phải khâm phục. Qua đây ta thấy rõ ràng cuộc sống ăn chơi xa hoa nơi phủ chúa. Trả lời cho câu hỏi vậy những cây cối um tùm danh hoa đua thắm kia là ở đâu ra?, tiền đâu mà có thể có cuộc sống ăn chơi như thế?. Có thể khẳng định tiền chính là những cống nộp của nhân dân. Trong tình hình đất nước chia làm hai như thế những chúa Trịnh không lo cuộc sống cho dân, trị được nước và đi vào lòng dân chúng mà ở đây chúa lại có cuộc sống chỉ biết ăn chơi hưởng lạc. Qua đây ta thấy được hiện thực đất nước ta trong những năm ấy, trong khi nhân dân sống một cách khổ cực thì chúa lại có một cuộc sống không ai sánh bằng. Như vậy qua đoạn trích vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác chúng ta thấy tác phẩm này thấm nhuần giá trị hiện thực của xã hội Việt nam những năm ấy. Cuộc sống vua chúa ăn chơi, xa đọa hưởng lạc thú mà quên đi nhiệm vụ trị an đất nước của mình. Bài viết số 2 lớp 11 đề 2 Đề bài Hình ảnh người phụ nữ việt nam thời xưa qua các bài bánh trôi nước tự tình thương vợ Dàn bài viết số 2 lớp 11 đề 2 1. Mở bài – Giới thiệu hình tượng ng phụ nữ trong văn học nói chung. – Cảm hứng về ng phụ nữ trong tự tình, của HXH và thương vợ của trần tế xương. 2. Thân bài – Thời đại hoàn cảnh, nội dung cơ bản trong thơ của 2 tác giả trên. – Người phụ nữ VN thời xưa đẹp người và đẹp nết. – Tảo tần, chung thủy, son sắt Bà tú, chịu thương chịu khó, tảo tần, quanh năm buôn bán, nuôi chồng nuôi con, thủy chung son sắt. – Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, gian nan, vất vả, hồng nhan bạc phận. – Trong tự tình Thân phận bẽ bàng, cô độc, tình duyên lận đận, hạnh phúc mong manh. – Trong thương vợ Lam lũ, vất vả – Viết về người phụ nữ vớ mối đồng cảm sâu sắc là 1 biểu hiện của tinh thần nhân đạo. 3. Kết bài – Người phụ nữ xưa phải chịu nhiều bất hạnh và sự hạn chế của ý thức xã hội – Nhắc nhở con người phải biết trân trọng hạnh phúc của ngày hôm nay. – Phân tích được các luận điểm sau + Họ là những người phụ nữ có tài có sắc thân em vừa trắng lại vừa tròn, trơ cái hồng nhan với nước non, có phẩm chất cao đẹp như bà Tú tông Thương vợ của Tú Xương Quanh năm buôn bán ở mom sông – Nuôi đủ năm con với một chồng. + Thân phận của những người phụ nữ này lại vô cùng nhỏ bé, cuộc đời của họ long đong lận đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, người phụ nứ không có chỗ đứng và địa vị trong xã hội vì vậy mà những người phụ nữ có tài như HXH thường không được coi trong đồng thời việc làm của một người vợ thường ít được người chồng cảm thông dù cho quanh năm lam lũ vất vả nuôi chồng nuôi con chăm sóc cho gia đình luôn được yên ấm dù mình có phải chịu thiệt thòi. + Bản lĩnh của người phụ nữ trong xã hội xưa Mặc dù bị trói buộc trong những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu… Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn vùng lên để đòi bình quyền. Để muốn rằng Họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội là rất lớn… Bài văn mẫu bài viết số 2 lớp 11 đề 2 Bài mẫu 1 Văn thơ trung đại Việt Nam, nhất là các tác phẩm viết bằng chữ Nôm nói nhiều đến tình yêu và số phận người phụ nữ trong cuộc đời. Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? Oan thác ấy bởi vì đâu? Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thơ lẩn trăng rằm? “Văn tế Trương Quỳnh Như” – Phạm Thái Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung “Truyện Kiều” – Nguyễn Du Nguyệt Nga là gái tuyết trinh, Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng. “Truyện Lục Vân Tiên” – Nguyễn Đình Chiểu Hồ Xuân Hương và Tú Xương, qua “Bánh trôi nước”, “Tự tình” – Bài II, “Thương vợ” đã làm hiện lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa với bao ấn tượng sâu xa, với bao cảm thương man mác. Bài thơ “Bánh trôi nước” có hai lớp nghĩa tả thực chiếc bánh trôi, một món ăn dân tộc và tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp của người con gái quê ta. Chữ “trắng” và chữ “tròn”, hình ảnh nhân hoá “thân em” đã thể hiện vẻ đẹp khiêm nhường, dịu dàng, trinh trắng và duyên dáng của “em”. Tuy tình yêu và số phận bị phụ thuộc vào lễ giáo phong kiến, và đạo tam tòng, vào “tay kẻ nặn”, dù “rắn nát”, dù vất vả, lận đận, long đong, trải qua “bảy nổi ba chìm”, nhưng em vẫn kiên trinh, sắt son. Hình ảnh ẩn dụ “tấm lòng son” và hai tiếng “vẫn giữ” đã ngợi ca đức hạnh kiên nhẫn, lòng chung thủy sắt son của người phụ nữ ngày xưa trong mọi gia đình Việt Nam. “Bánh trôi nước” là bức chân dung nghệ thuật với hai gam màu “trắng” và “son” tuyệt đẹp “Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Chùm thơ “Tự tình” ba bài của Bà chúa thơ Nôm, đặc biệt biệt bài thơ thứ hai, đã nói lên một cách cảm động về bi kịch tình duyên của người phụ nữ phận hẩm duyên ôi! Người phụ nữ ấy thao thức giữa đêm khuya, một mình một bóng đang lắng nghe tiếng trống dồn “văng vẳng” từ một chòi canh xa đưa lại. Thao thức vì cô đơn, vì lẻ bóng. Rượu và trăng cũng không làm vợi đi bao nỗi buồn chồng chất, đang đè nát cõi lòng. “Chén rượu hương đưa” cứ ngỡ có thể làm say để quên đi bao nỗi buồn chứa chất tâm hồn, cố uống cho say, nhưng “say lại tỉnh” để mà thêm buồn; buồn cho tình duyên lẽ mọn! Trơ trọi ngắm “vầng trăng bóng xế”, ngắm mãi ngắm hoài mà trăng kia vẫn “khuyết chưa tròn”, Hạnh phúc mà nàng mong đợi chỉ là “Một tháng đôi lần có cũng không!”. Số phận và bi kịch ấy thật đáng thương! Trong bi kịch tình duyên, người đàn bà lẽ mọn cố vùng vẫy bươn ra nhưng thoát sao được. Dù có “xiên ngang mặt đất”, dù có “đâm toạc chân mây”, nhưng đám rêu kia, mấy hòn đá nọ cũng không thể nào thay đổi được cảnh ngộ đáng buồn, đáng thương, đáng tủi, đáng hận “Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”. Phép đảo ngữ trong hai câu thơ không chỉ làm nổi bật cái dữ dội tiềm ẩn của thiên nhiên mà còn tô đậm sự phản kháng duyên số, phản kháng đến tuyệt vọng của người đàn bà “lấy chồng chung”. Thời gian chẳng mang lại hạnh phúc cho nàng. Mùa xuân cũng chẳng đem lại niềm vui gì cho nàng, mà nỗi chán ngán, đau khổ cứ chồng chất mãi thêm. Mùa xuân đi qua rồi mùa xuân lại trở lại, tuổi mỗi ngày một cao, nhan sắc ngày một phai tàn, nhưng tình yêu và hạnh phúc chỉ được “san sẻ tí con con” mà thôi! Thật đáng thương! Thật tội nghiệp. Tổng Cóc và ông phủ Vĩnh Tường cũng chẳng mang lại cho nàng chút hạnh phúc nào! Hai câu kết đã cực tả nỗi đau khổ trong bi kịch tình yêu của Hồ Xuân Hương “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con!” “Tự tình” – Bài II không chỉ nói lên nỗi đau khổ cô đơn mà còn thể hiện niềm khao khát tình yêu hạnh phúc của người đàn bà trong cảnh ngộ “lấy chồng chung”, Giá trị nhân bản của bài thơ thật sâu sắc. Tú Xương có bài “Văn tế sống vợ”; ông còn có bài “Thương vợ” Cảm hứng chủ đạo là tình thương, lòng quý trọng, biết ơn của ông đối với người vợ hiền thục của mình. Bài mẫu 2 Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc của văn học dân gian. Mảng đề tài đầy cảm hứng nhân văn này đã làm nên giá trị của nền văn học nói chung, gương mặt của các tác giả nói riêng. Tiêu biểu là Hồ Xuân Hương với “Tự tình” II và Tú Xương với “Thương vợ”. Đúng như vậy, hai bài thơ với hai người phụ nữ đều khát khao một mái ấm gia đình. Xong cuộc đời lại lắm éo le trắc trở. Họ phải chịu đựng số phận hẩm hiu chế độ phong kiến mục nát. Cái chế độ mà khi nhắc tới ai ai cũng thấy bất bình tĩnh. Là phụ nữ thì sao chứ? Chẳng lẽ phụ nữ không phải con người trong xã hội? Hà cớ gì cứ phải bắt người phụ nữ làm những thứ họ không muốn từ những hủ tục lạc hậu cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có quyền hành gì trong gia đình. Trước hết, thơ của Hồ Xuân Hương là những lời than thân từ nỗi niềm riêng của một cá thể, chất chứa những vấn đề mang tầm phổ quát của thân phận người phụ nữ. Hay nói cách khác, bằng việc viết lên tiếng nói cá nhân. Hồ Xuân Hương làm sống lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa. “Tự tình” II nằm trong chùm thơ tự tình gồm ba bài viết bằng chữ Nôm. Đó là sự đau khổ vì không là chủ được thân phận mình. Trong khung cảnh lúc nửa đêm nổi bật chỉ là âm thanh “văng vẳng” của trống canh dồn, tiếng trống dồn dập, gấp gáp như hối thúc dội vào lòng người. Âm thanh văng vẳng không chỉ đơn thuần là sự cảm nhận bằng thính giác mà còn là cảm nhận của xúc giác về thời gian. “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”. Nhức nhối một tâm sự “trơ cái hồng nhan với nước non”. vẻ đẹp của người phụ nữ trong đêm trơ trọi, im ắng, gợi lên hình ảnh “hồng nhan” trở nên rẻ rúng, không có giá trị. Chắc hẳn ai trong tình cảnh của Hồ Xuân Hương cũng cảm thấy quạnh hiu, đau nhói, buồn phiền. Hình ảnh “cái hồng nhan” với “nước non” càng cho thấy tâm trạng bẽ bàng tủi hổ của người phụ nữ. Cùng với nỗi buồn đè nặng lên con người nhỏ bé trong xã hội, đè lên thân phận của họ. Hồ Xuân Hương là con người rất mạnh mẽ, bà không cam chịu và muốn thoát khỏi. “Chén rượu hương đưa” là một phương tiện giải sầu, tuy không phải phương tiện duy nhất nhưng là tốt nhất vào lúc này. Tìm quên trong chén rượu, say rồi lại tỉnh, càng uống càng nhận thức mọi thứ rõ ràng hơn. Nó như một vòng luẩn quẩn khiến người phụ nữ ấy nhận ra sự cô đơn trĩu nặng hơn. Hướng tới vầng trăng mong tìm người bạn tri âm tri kỉ giữa đất trời nhưng “khuyết chưa tròn” lại còn “bóng xế”. Ngoại cảnh và con người g đây như một. Người phụ nữ tự hỏi đến bao giờ trăng mới tròn. đến bao giờ người mới có được tình yêu cho mình. Trăng đã sắp tàn mà vẫn chưa tròn, tuổi xuân qua đi mà nhân duyên chưa tới. Người phụ nữ đang chơi vơi giữa một thế giới mênh mông, hoang vắng, muốn thoát khỏi nhưng bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi với chính mình. Đến với Tú Xương là đến với những bài thơ tràn đầy tình yêu thương, cảm động viết về người vợ đang còn sống. Bài thơ “Thương vợ” thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ, một người vợ đảm đang. Bà Tú có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được. Vì chồng, thương con mà cam chịu cuộc sống khó khăn vất vả. Quanh năm suốt tháng, ngày này qua ngày khác không có lấy một ngày nghỉ, ngày mưa cũng như ngày nắng Bà Tú lam lũ buôn bán trên một mảnh đất nhô lên ở lòng sông. Cái nơi bấp bênh, gập ghềnh hiện lên hình ảnh tần tảo, tất bật ngược xuôi của bà Tú. “Quanh buôn bán ở mom sông”. Cái nền không gian, thời gian ấy, cuộc mưu sinh đầy khó khăn của bà Tú được ông Tú phác họa. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Hình ảnh “thân cò” là hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Ông Tú đã dùng hình ảnh đó để nói về nỗi vất vả của bà Tú, đồng thời cũng gợi lên số kiếp, nỗi đau thân phận. Thân cò “lặn lội” trong một khoảng không gian “khi quãng vắng” vừa chỉ ra cái rợn ngợp của thời gian, vừa chỉ ra cái rợn ngợp của không gian. Hình ảnh bà Tú trở nên rõ nét hơn về sự vật lộn với cuộc sống. “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Cảnh bươn trải, chen chúc nhau của những người buôn bán rất khó khăn. “Buổi đò đông” đâu có giống như “khi quãng vắng”. Nó không chỉ có những lời cãi cọ, mè nheo, sự chen lấn xô đẩy mà còn có những bất trắc nguy hiểm. Biết là vậy nhưng bà Tú vẫn đi trên chuyến đò đó để dành miếng cơm manh áo cho chồng con. Dù vắng hay đông bà Tú cũng thui thủi một “thân cò”. Tuy rằng số phận dằng buộc họ nhưng nhờ đó những phẩm chất cao quý của người phụ nữ được hiện diện. Dù đau đớn thế nào, dù yếu ớt đến đâu thì trong sâu thẳm trái tim Hồ Xuân Hương cũng ánh lên ngọn lửa khao khát, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu tranh thay đổi cuộc sống của mình. “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám./Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”. Tâm trạng con người như muốn nói lên nỗi phẫn uất, ngang ngạnh, bướng bỉnh. Thiên nhiên trong mắt Hồ Xuân Hương tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mạnh mẽ. “Rêu”, “đá” chỉ là những vật nhỏ bé, hèn mọn nhưng không hề yếu đuối bởi rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây. Điều đó càng chứng tỏ Hồ Xuân Hương muốn bứt phá rào cản để đi tìm hạnh phúc cho mình, muốn giải thoát số phận hoàn cảnh, thể hiện cá tính táo bạo của nữ sĩ. Tuy lòng đầy canh cánh nhưng bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời. Yêu đời là thế, sức sống là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn “xuân đi xuân lại lại”. Cái vòng quẩn quanh đáng ghét của cuộc đời không thể tránh khỏi tiếng thở than chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” nhỏ vụn đã vỡ nhưng nay vẫn bị sẻ đi sẻ lại. Đối với trái tim thiết tha yêu thương kia, điều đó như một vết thương cứa sâu đau nhức nhối, khao khát một tình yêu trọn vẹn. Dù có vất vả, đau xót, chán chườm đến thế nào thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là những con người có phẩm chất đẹp đẽ. Không chỉ vẻ bề ngoài mà còn cả bên trong. Đó là lòng yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng vì con. “Nuôi đủ năm con với một chồng”. “Nuôi đủ năm con” là việc hiển nhiên của một người mẹ nhưng còn chồng, cớ sao lại phải đếm “một chồng”? Là vì chồng, bà Tú cũng phải nuôi và đáp ứng đầy đủ nhu cầu cần thiết cho ông Tú. Bà Tú phải thắt lưng buộc bụng nuôi dưỡng năm đứa trẻ vất vả, vậy mà phải nuôi thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng đè lên đôi vai nhỏ của bà tăng gấp đôi. Sự khéo léo. đảm đang của bà thể hiện ở việc lựa chọn ông Tú mà sống, khéo léo chiều sự khó tính khó nết của ông để trong ấm ngoài êm. Bà Tú nhẫn nhục chịu đựng cái nợ đời như một sự tất yếu không thể không chấp nhận. “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Điều kì diệu là người mẹ, người vợ này không hề ý thức rằng đó là sự hi sinh. Sự vất vả “năm nắng mười mưa” càng thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con mà bà đâu “dám quản công” một lời. Bà tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo cho gia đình. Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng. Phải chăng đó chính là đức hi sinh – vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam? Hai người phụ nữ đẹp đều tìm thấy sức mạnh, ý chí để vượt lên hoàn cảnh. Nhưng trong cuộc thoát thân họ còn cô đơn quá, vì thế mà thất bại. Một người muốn bứt phá, thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt. Một người cam chịu, nhẫn nại để làm tròn bổn phận một người mẹ, một người vợ. Một người được đồng cảm, sẻ chia. Một người cô đơn một mình, buồn đau trước số phận hẩm hiu. Chỉ khi những người phụ nữ biết đoàn kết, biết đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng họ mới có thể thay đổi được số phận, làm chủ được cuộc đời mình. Người phụ nữ thời xưa phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công, ngang trái và bị hạn chế bởi xã hội phong kiến. Còn người phụ nữ ngày nay được quyền bình đẳng, quyền học tập, quyền lựa chọn tình yêu và quyền làm chủ cuộc đời. Họ không còn bị đối xử như trước nữa. Tuy người phụ nữ ngày xưa có cuộc đời éo le nhưng hình ảnh sâu thẳm trong họ không bao giờ bị mất đi. Dù hoàn cảnh có ra sao thì tâm hồn cao đẹp của họ vẫn sáng lên. Và điều đó khiến ta luôn tự hào về người phụ nữ Việt Nam. Bài viết số 2 lớp 11 đề 3 Đề bài Nhân cách nhà nho chân chính trong bài ca ngắn đi trên bãi cát của cao bá quát Dàn ý bài viết số 2 lớp 11 đề 3 1. Mở bài – Giới thiệu nhân cách nhà nho chân chính. 2. Thân bài a. Nhân cách nhà nho chân chính là cái gì? – Giải thích – Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất của con người. – Thế nào là nhà nho? Nhà nho là những người tri thức thời xưa, theo Nho học. Nhà nho là người đã học sách thánh hiền được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lí …. Nhìn chung “Nho” là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa, biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. b. Nhân cách nhà nho chân chính là thế nào? – Trước hết nhân cách nhà nho chân chính là phải biết “tu thân”. Trong tu thân, sự học là rất quan trọng. Mà học là để đỗ đạt trong thi cử. Sau đó “trị quốc”, ra làm quan để kính bang tế thế, giúp nước giúp đời. “Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đóc Đông …” – Nhân cách nhà nho chân chính như Nguyễn Công Trứ còn có tính cách của một nhà nho tài tử. “Đô môn giải tổ chi niên Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng … – Nhân cách của nhà nho chân chính Cao Bá Quát lại có những nét đặc biệt “Bãi cát lại bãi cát dài, Đi một bước như lùi một bước …” 3. Kết bài – Đánh giá chung Nhân cách nhà nho chân chính Bài văn mẫu bài viết số 2 lớp 11 đề 3 Bài mẫu 1 Ta vẫn thường nghe “Tài cao phận thấp, chí khí uất”. Dường như cái tài năng vẫn chưa đủ để con người ta tỏa sáng những còn bởi một chữ “phận”. Đó cũng chính là bi kịch cuộc đời của một con người tài hoa bậc nhất Cao Bá Quát. Ông hiện ra là một nhà nho giỏi, đức độ với một tâm hồn văn chương và cốt cách thanh cao. Được nhân dân tôn lên hàng thánh – thánh Quát. Vậy nhưng đương thời Chu Thẩn lại phải trải qua biết bao khổ ải, gian truân của một chế độ phong kiến thối nát suy tàn. Những nỗi niềm xót xa, phẫn uất của một đấng nam nhi đã được ông gửi gắm kín đáo trong tác phẩm Sa hành đoản ca. Là một nhà nho chân chính, Cao Bá Quát vốn chịu ảnh hưởng rất lớn của quan niệm “chí làm trai”. Cũng như Nguyễn Công Trứ và bao bậc trượng phu đương thời, ông luôn tâm niệm va khao khát lập nên công danh sự nghiệp vẻ vang hiển hách cho đời, coi đó là lý tưởng sống, là trách nhiệm trọn đời và là món nợ phải trả – “nợ tang bồng”. Ông vố đã sớm được coi như một tài năng xuất chúng khi mới chỉ ít tuổi và càng trưởng thành, ông lại càng chứng tỏ rõ khí phách hiên ngang và hoài bão lớn lao của mình. Tuy nhiên đứng trước một xã hội phong kiến bảo thủ, trì trệ và khủng hoảng, con người ấy đã không thể thỏa mãn khát vọng của mình. Bãi cát dài lại bãi cát dài, Đi một bước như lùi một bước. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một khúc ca ngắn, vậy mà bản thân nó lại vẽ nên một con đường rất dài. Bức tranh sa mạc mênh mông cát trắng với bóng người nhỏ bé đang bước đi từng bước khó nhọc. Đi mà như lùi, vậy ra đi mà thực ra không đi. Đó là một hình ảnh rất thực và cũng bao hàm ý nghĩa ẩn dụ. Đây thực ra là con đường thi cử của chính tác giả, cái tủi nhục của bãi cát cũng là cái nhọc nhằn ông đang phải gánh chịu vì con đường ấy – khó nhọc mà xa vời. Đối với trí thức nho sĩ ngày xưa, con đường học – thi – làm quan ấy đầy gian nan vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của nho học và đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập công danh của mình. Suốt những năm từ lúc 14 tuổi cho đến khi 31 tuổi, Cao Bá Quát đã vào Huế đi thi không biết bao nhiêu lần nhưng lần nào ông cũng bị đánh hỏng. Không phải vì ông không có tài mà vì lẽ cái tính cách ngông nghênh của ông vốn đã quá nổi tiếng và không được lòng các vị quan triều thần. Đến đây lời thơ như những tiếng thở dài của chính tác giả, ta thấy được trướng nhất là sự chán ngán của Chu Thần trước thời cuộc. Bản thân ông ngày càng nhận thức được sự lạc hậu, thoái hóa của chế độ học hành thi cử truyền thống trong cái chuyển mình của thời thế. Mặt trời đã lặn chưa dừng được, Lữ khách trên đường nước mắt rơi. “Mặt trời lặn” là hình ảnh chuyển giao của thời gian, khi thiên nhiên đã chìm dần vào giấc nghỉ ngơi, thì đối lập với nó là hình ảnh người lữ khách “chưa dừng được”. Vì sao chưa dừng được? Bởi lữ đường còn dài mà đích thì chẳng thấy đâu. Con đường cuộc đời ông đi mãi mà ông vẫn chưa tìm được cho mình chỗ đứng trong xã họi, chưa thỏa mãn ý chí lập nên công danh. Vậy nên bản thân ông không cho phép mình dừng lại. Nếu ở câu đầu mở ra là sự rộng lớn của không gian thì đến lúc này, Cao Bá Quát lại nói đến sự chảy trôi liên tục của thời gian, tất cả những yếu tố thiên nhiên vũ trụ ấy dường như đều là lực cản đường, cản trở những bước đi vốn đã đầy khó nhọc trên cát. Do đó, ông thấy mình trơ trọi cô đơn trước bãi cát hoang vu ấy và tự khóc cho số phận dai dẳng của mình. Có thể những giọt nước mắt ấy ban đầu chỉ đơn thuần do tác động của ngoại cảnh gió, cát, bụi nhưng chúng trở nên đắng hơn, mặn hơn và xót xa hơn bởi tâm sự của tác giả. Để rồi từ đây, những cung bậc cảm xúc của Chu Thần được đưa lên một vị trí mới Không học được tiên ông phép ngủ, Trèo non, lội suối giận khôn vơi. Chu Thần đang giận ai hay giận cái gì vậy? Ông đang giận chính bản thân ông bởi nhiều lẽ. Thứ nhất, ta có thể hiểu trước những cảnh đời khổ cực của nhân dân và thời thế thay đổi, ông dù một lòng trung quân ái quốc, hết mực thương dân nhưng vẫn chưa thể làm để đem tài năng ra giúp dân giúp nước. Ngay cả Nguyễn Công Trứ “ngất ngưởng” là thế mà con luôn tâm niệm “nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chúng”. Vậy nên ông tự trách bản thân vẫn chưa làm tròn nhiệm vụ với giang sơn xã tắc “Không có lấy một sách lược gì làm cho đời được thái bình, thẹn mình là nhà nho mà lại tầm thường đến thế”. Tâm sự này của ông khiến ta cảm thấy trân trọng một con người có tấm lòng đức độ và tâm hồn thanh cao trong thơ văn “Nhất sinh đê thủ bái mao hoa”. Bài mẫu 2 “Nhất sĩ, nhì nông”. Trong xã hội phong kiến xưa, giai cấp được xếp hạng nhất, được trọng vọng nhất đó là “sĩ”, thường được gọi là các nhà nho. Vậy họ là ai? Họ làm việc gì và sinh sống ra làm sao? Chúng ta thử tìm hiểu nhân cách của nhà nho chân chính qua Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát và Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ. Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất của con người. Thế nào là nhà nho? Nhà nho là những người tri thức thời xưa, theo Nho học. Nho giáo là một hệ thống đạo đức, triết lí và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà nho, nho sĩ hay nho sinh. Nhà nho là người đã học sách thánh hiền, có học thức, biết lễ nghĩa, biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lí … Nhân cách nhà nho chân chính thể hiện trước hết là biết “tu thân”. Trong tu thân, sự học là rất quan trọng. Khổng Tử nói “Ta đi học là học cho ta, để gây cái phẩm giá của ta”. Mà học là để đỗ đạt trong thi cử. Sau đó “trị quốc”, ra làm quan để kinh bang tế thế, giúp nước giúp đời. Mà làm việc gì Nguyễn Công Trứ cũng làm đến nơi đến chốn. Trong bài ca ngất ngưởng, ông viết “Vũ trụ nội mạc phi phận sự, Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng. Lúc bình Tây, cầm cờ Đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên. Nguyễn Công Trứ liệt kê các vị trí, chức quan ông đã trải qua. Chúng đều là những vị trí cao nhất trong phạm vi của nó Thủ khoa đứng đầu khoa thi Hương, tức Giải nguyên, Tham tán đứng đầu đội quan văn tham chiến Tham tán quân vụ, Tham tán đại thần, Tổng đốc đứng đầu một tỉnh hoặc vài ba tỉnh, Đại tướng cầm đầu đội quân bình Trấn Tây, phủ doãn đứng đầu ở kinh đô. Ngoài ra, ông còn có các hoạt động đa dạng trong lĩnh vực kinh tế khai hoang lập nên hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải, trị thủy đê sông Hồng; đấu tranh với tệ cường hào ở nông thôn; kiến nghị về quỹ xã thương dự trữ gạo, về việc cấp tiền dưỡng liêm để chống tham nhũng … Tất cả công việc đều được Nguyễn Công Trứ thực hiện đầy tinh thần trách nhiệm, có hiệu quả cao. Là một nhà nho chân chính, Cao Bá Quát cũng ảnh hưởng rất lớn của quan niệm “chí làm trai”. Cũng như Nguyễn Công Trứ và bao bậc sĩ phu đương thời, ông luôn tâm niệm và khao khát lập nên công danh sự nghiệp vẻ vang cho đời, coi đso là lí tưởng sống, là trách nhiệm trọn đời và là món nợ phải trả – “nợ tam bồng”. Ông vốn đã sớm được coi như một tài năng xuất chúng khi mới chỉ ít tuổi và càng trưởng thành, ông lại càng tỏ rõ khí phách hiên ngang và hoài bão lớn lao của mình. Năm Tân Mão 1831 đời vua Minh Mạng, ông thi Hương đỗ Á Nguyên tại trường thi Hà Nội, nhưng đến khi duyệt quyển, bị Bộ Lễ kiếm cớ xếp xuống cuối bảng, xếp ông xuống hạng cuối cùng trong số 20 người đỗ cử nhân. Năm Nhâm Thìn 1832, Cao Bá Quát vào kinh đô Huế dự thi Hội nhưng không đỗ. Sau đó, ông vào kinh dự thi mấy lần nữa, nhưng lần nào cũng hỏng. Năm 1841, đời vua Thiệu Trị, được quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử, Cao Bá Quát được triệu vào kinh đô Huế bổ làm Hành tẩu ở bộ Lễ. Sau ba năm bị thải về, Cao Bá Quát nhận được lệnh triệu vào Huế 1847 làm ở Viện Hàn lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Bên cạnh nhân cách nhà nho chân chính, Nguyễn Công Trứ còn có tính cách của một nhà nho tài tử. Điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nho tài tử với người nhà nho hành đạo nhập thế và nhà nho ẩn dật xuất thế là ở chỗ nhà nho tài tử coi “tài” và “tình” chứ không phải đạo đức làm nên giá trị của con người. Nhà nho tài tử quan nhiệm “tài” theo nhiều cách có thể đó là tài trị nước, cầm quân kinh luân, có thể là tài học vấn. Nhưng dẫu đã có những tài năng ấy, vẫn nhất thiết phải có thêm tài văn chương, văn nghệ, “cầm kì thi họa” và những thứ nghệ thuật tài hoa, và tài năng đó phải gắn với “tình” nữa mới thành nhà nho tài tử “Đô môn giải tổ chi niên Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. Kìa núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dáng từ bi, Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”. Ông cáo quan về quê, thoát khỏi chốn quan trường năm 1848. Đó cũng chính là thời điểm ông sáng tác bài thơ này. Nguyễn Công Trứ cho mọi người biết rằng ông đã hết làm quan, đã đực tự do, thoát khỏi “cái lồng” làm quan. Hành động của ông lúc từ quan đã làm nổi bật được cái ngông trong con người ông khi khác với những ông quan về ở ẩn bằng ngựa, ông lại quyết định về quê bằng một con bò vàng có đeo nhạc. Ông “ngất ngưởng” ngồi trên lưng bò, được mọi người nhìn theo bằng con mắt hiếu kì, ngạc nhiên. Câu thơ “Kìa núi nọ phau phau mây trắng” tái hiện một phong cảnh tuyệt đẹp, thần tiên. Nguyễn Công Trứ đã dựng nhà và sống chốn thần tiên ấy – núi Đại Nại. Tưởng rằng khi về ở ẩn, ông sẽ sống một cuộc sống giản dị, thanh nhàn theo phong cách của một nhà nho. Thế nhưng, ông đã làm một việc trái luật của nhà nho, hành xử không đúng với việc ông được học những cô hầu gái đủng đỉnh đi theo ông tới chốn tu hành, lại còn ca hát, đánh đàn. Hành động của ông khiến Bụt cũng phải nực cười, cười cho cái hành động “lạ”, ngông cuồng và “ngất ngưởng”. “Được mất dương dương người thái thượng Khen chê phơi phới ngọn đông phong”. Đối với Nguyễn Công Trứ, “Được” và “mất” là hai chuyện thường tình trong cuộc sống. Ông không buồn khi “mất” cũng chẳng vui khi “được”. Ông chấp nhận những gì cuộc sống mang lại cho ông dù đó là “được” hay “mất” cũng không quan trọng. Ông cứ thưởng thức “Đông phong”, gió xuân ấm áp phe phẩy bên tai, chẳng đáng quan tâm đến “được – mất”, “khen – chê”. “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng Không Phật. không tiên, không vướng tục”. Nguyễn Công Trứ dù đi chùa nhưng lại dẫn theo hần gái, lại còn gảy đàn và ca hát nơi tôn nghiêm. Thế nhưng ông không thuộc về nơi trần tục ấy, ông không vướng vào thói hư hư tật xấu vì ông là một nhà nho tài tử. Cao hơn đó là ông “ngất ngưởng” hơn trần tục, hơn những đỉnh núi cao danh vọng, ông vượt qua Phật, qua tiên. Nguyễn Công Trứ rất riêng, không giống bất kì ai. Khác với Nguyễn Công Trứ, nhân cách của nhà nho chân chính Cao Bá Quát lại có những nét đặc biệt đó là tầm nhìn xa rộng về cuộc đời, đó là tinh thần muốn đổi mới cuộc sống. Trong tác phẩm Bài ca ngắn đi trên cát, Cao Bá Quát đã thể hiện sự coi thường danh lợi, công danh trong xã hội phong kiến xưa đã bị thối nát. Ông đã nhận ra tư tưởng hà khắc, lạc hậu của Nho giáo “Bãi cát lại bãi cát dài, Đi một bước như lùi một bước. Mặt trời đã lặn, chưa dừng được, Lữ khách trên đường nước mắt rơi”. Bài can ngắn đi trên bãi cát là một khúc ca ngắn, vậy mà bản thân nó lại vẽ trên một con đường rất dài. Bức tranh mênh mong cát trắng với bóng người nhỏ bé đang bước đi từng bước khó nhọc. Đi mà như lùi, đi mà như không đi. Đây thực ra là con đường thi cử của chính tác gia. Cái nhọc nhằn của bãi cát cũng là cái nhọc nhằn ông đang phải gánh chịu vì con đường ấy khó nhọc mà xa vời. Đối với tri thức nho sĩ ngày xưa, con đường hoc – thi – làm quan ấy đầy gian nan vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của nho học và đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập công danh của mình. Bản thân ông ngày càng nhận thức được sự lạc hậu, tha hóa của chế độ học hành thi cử truyền thống trong cái chuyển mình củ thời thế. “Mặt trời lặn” là hình ảnh chuyển giao của thời gian, khi thiên nhiên đã chìm dần vào giấc nghỉ ngơi, thì đối lập với nó là hình ảnh người lữ khách “chưa dừng được”. Vì sao chưa dừng được? bởi lẽ đường còn dài mà đích thì chẳng thấy đâu, Cao Bá Quát lại nói đến sự chảy trôi liên tục của thời gian. Tất cả dường như đều là lực cản đường, cản trở những bước đi vốn đã đầy khó nhọc trên cát. “Xưa nay, phường danh lợi, Tất tả trên đường đời, Đầu gió hơi men thơm quán rượu Người say vô số, tình bao người?” Con đường danh lợi cũng là một thứ đường đời thật gập gềnh, trắc trở. Cong danh được ví như một thứ rượu cám dỗ đời người, khiến con người phải bon chen, phải gạt đi mọi giá trị đạo đức luân lí. Học hành, đỗ đạt rồi vào chốn quan trường để phú quý vinh hoa, con đường lập thân, lập nghiệp ấy sao quá nỗi tầm thường. Lòng nhủ phải làm cái gì đó lớn hơn, cao cả hơn. Nhưng tiếc thay, chẳng mấy kẻ thắng được cái sức lôi cuốn của danh lợi. Số đông này hễ cứ ngửi thấy men thơm là lao đầu vào cho đến say khướt. Những suy nghĩ của Chu Thần đã đi trước thời cuộc của ông và minh chứng cho trí tuệ uyên bác vượt bậc của danh sĩ họ Cao. Người đọc cũng có thể thái độ khinh miệt, chán ghét của ông với lối quan niệm của các sĩ tử bấy giờ và ông tự hào là kẻ tỉnh hiếm hoi giữa rừng người say ấy. Song đáng buồn thay, ông vẫn đang đi theo con đường này. Trong tâm trí đang tự hỏi mình “tỉnh” hay “say” để rồi lại trút tiếng thở dài “Bãi cát dài, bãi cát dài ơi! Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ còn nhiểu, đâu ít? Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”, Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,” Tiếng thở dài chán ngán, mệt mỏi của Cao Bá Quát khi gặp phải sự bế tắc, lòng luôn thao thức câu hỏi Tính sao đây?”. Khó khăn nối tiếp khó khăn, nhìn bốn bề, đâu đâu cũng chỉ thấy những trắc trở, gian lao muôn trùng. Dường như, trong ông đang có sự đấu tranh quyết liệt Một mặt, ông không muốn đi tiếp vì biết đường gian khổ mà vô đích. Mặt khác lại có một tiếng gọi vang lên từ tấm lòng thương dân sâu sắc, đó là cái nợ nước nhà chưa thể trả, nợ công danh cuộc đời. “Anh đứng làm chi trên bãi cát?” Câu hỏi vang lên vô vọng giữa bãi cát mênh mông. Nhưng có vẻ kín đáo trả lời cho mâu thuẫn nội tâm của Cao Bá Quát. Một lần nữa, ông khẳng định tính chất vô nghĩa của con đường “bãi cát” ấy để làm tiền đề cho cái nhìn của mình, cái nhìn sáng suốt từ bỏ cái cũ lỗi thời để đến với cái mới. Đến đây, ta chợt nhớ đến triết lí của Lỗ Tấn “trên thế gian làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Quả thật vậy, câu hỏi tu từ “Anh đứng làm chi trên bãi cát” như là lời thúc giục, là tiếng gọi lên đường, khai phá lối đi mới tiến bộ. Đó cũng là nguyên nhân chính và động cơ thúc đẩy Chu Thần đứng ra, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa Mĩ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn – việc làm để lại tiếng danh muôn đời khiến thế hệ sau nể phục khôn nguôn. Tóm lại, Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ xứng danh là những con người có nhân cách nhà nho chân chính. Hai nhà thơ đã có những suy nghĩ rất độc đáo tuy sống trong một xã hội đã bị thấm nhuần tư tưởng hà khắc, lạc hậu của Nho giáo. Với Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ chứng tỏ là một nhà nho tài tử, thể hiện rõ sự khác biệt, “ngất ngưởng” trong suy nghĩ của ông về một nhà nho chân chính, không ép mình bị trói buộc, Cao Bá Quát chứng tỏ là một nhà nho có quan niệm sống tiến bộ, có cái nhìn vượt thời đại, là ước muốn cái cách xã hội. Cả Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đều để lại dấu ấn qua tác phẩm của mình để khẳng định phong cách riêng của mỗi người. Vì thế có thể nói, cả hai nhà thơ đều đáng được đề cao như những nhà nho đã tạo nên một diện mạo mới cho Nho học Việt Nam. Bài viết số 2 lớp 11 đề 4 Đề bài Những cảm nhận sâu sắc của anh chị qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu Dàn ý bài viết số 2 lớp 11 đề 4 1. Mở bài – Giới thiệu cuộc đời thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. 2. Thân bài a. Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu – Sinh năm 1822, mất năm 1888, quê ở tỉnh Gia Định, tục gọi là Đồ Chiểu. – Năm 1843 ông đỗ tú tài. – Bỏ thi khi nghe tin mẹ mất, bị mù, bị từ hôn. – Dạy học và làm thuốc ở Bến Tre. – Ông liên hệ mật thiết với các nhóm nghĩa binh, dùng văn chương kêu gọi lòng yêu nước. b. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu – Nghị lực và nhân cách cao cả. – Đồ Chiểu là một nhà giáo, một người thầy. – Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một nhà thơ nổi tiếng. c. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc. – “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. – “Lục Vân Tiên” lại được đánh giá là “bản trường ca ca ngợi chính nghĩa”. – Quan niệm “văn dĩ tài đạo” của ông khác với quan niệm của nhà Nho đó là quan điểm xem ngòi bút là vũ khí chiến đấu. – Tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống bền vững trong tình cảm nhân dân. – Lí tưởng thẩm mĩ trong các nhân vật anh hùng. – Lối sống trọng đạo lí và công bằng xã hội, trọng con người và căm ghét áp bức bất công. 3. Kết bài – Đánh giá chung cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu Bài văn mẫu bài viết số 2 lớp 11 đề 4 Bài mẫu 1 “Thư sinh đánh giặc bằng ngòi bút, Báo nước từng này biết mấy thương”. Miên Thẩm Nền văn học trung đại như dãy núi trong đó nổi bật ba ngọn núi ngọn núi đầu tiên là Nguyễn Trãi ở thế kỉ XV, ngọn núi chính giữa là Nguyễn Du ở thế kỉXVIII và ngọn núi cuốicùng là Nguyễn Đình Chiểu ở thế kỉ XIX. Nhà thơ Đồ Chiểu từng được mệnh danh là “Thư sinh đánh giặc bằng ngòi bút”, đã cống hiến suốt đời cho đất nước bằng các tác phẩm văn học yêu nước của mình. Vì thế cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc. Trước hết chúng ta tìm hiểu tiểu sử của Nguyễn Đình Chiểu Ông sinh năm 1822, mất năm 1888, tục gọi là Đồ Chiểu khi dạy học, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai sau khi bị mù; tại quê mẹ là làng TânThới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định thuộc phường CầuKho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Năm 1843, ông đỗ Tú tàiở trường thi Gia Định. Năm 1847, ông ra Huế học để chờ thi khoa sau đó, mẹ ông mất, ông trở về chịu tang mẹ, dọc đường vị vả lại thương mẹ khóc nhiều nên ông bị bệnh rồi mù cả dôi mắt. Về qua chịu tang mẹ xong, ông lại bị một gia đình giàu có bội ước. Từ ấy ông vừa dạy học vừa làm thơ. Khi Pháp xâm chiếm Gia Định, ông về ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, tiếp tục dạy học và làm thuốc. Vốn nhiệt tình yêu nước, ông liênhệ mật thiết với các nhóm nghĩa binh của Đốc binh Nguyễn Văn Là, lãnh binh Trương Định. Ông tích cực dùng văn chương kêu gọi lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân. Sau khi đọc xong tiểu sử, tôi có những cảm nhận rất sâu sắc về cuộc đời của ông. Trước hết, tôi rất khâm phục nhân cách cao cả của nhà thơ. Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về nghị lực và ý chí của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, đau thương nước mất nhà tan, bản thân bị mù, bị từ hôn… nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời chính là thái độ sống có văn hoá, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Nhìn từ góc độ văn hoá, Nguyễn Đình Chiểu là một con người Việt Nam trọng đạo lí, nặng tình người, tôn trọng, đề cao bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng, khen chê dứt khoát. Vì người, ông sẵn sàng hi sinh, xả thân, không màng danh lợi. Vì đời, ông chấp nhận mọi thử thách trước khó nghèo, khổ cực, không hám lợi, không sợ uy vũ, không khuất phục cường quyền. Tóm lại, cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng về nghị lực và nhân cách trong lúc đất nước có ngoại xâm. Mặc dù bị mù đôi mắt, không trực tiếp cầm gươm, cầm súng đánh giặc được, ông đã dùng văn chương như một vũ khí sắc bén để chống kẻ thù, ca ngợi những tấm gương hi sinh vì nghĩa. Dù hoàn cảnh nào ông cũng nêu cao khí tiết của người chí sĩ yêu nước. Điều tôi ngưỡng mộ nhất là những cống hiến của ông trong lĩnh vực giáo dục. Đồ Chiểu là một nhà giáo, một người thầy trọn đời chăm lo dạy dỗ môn sinh, truyền thụ cho thế hệ tương lai những điều cốt lõi của văn hoá Việt Nam, về đạo lí truyền thống của dân tộc và nhân cách của một kẻ sĩ. Hào khí Đồng Nai, một nét đẹp văn hoá của con người Nam Bộ được nuôi dưỡng và phát huy chính là nhờ sự nghiệp giáo dục của biết bao thế hệ người thầy đầy tâm huyết mà được truyền thụ đến ngày nay, trong đó có nhà thơ -nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu. Chúng ta đều biết NguyễnĐình Chiểu thuộc thế hệ học trò thứ hai của nhà giáo Võ Trường Toản ở Gia Định, một người thầy nổi tiếng về phương pháp giáo dục tri ngôn, dưỡng khí, tập nghĩa, một nhà trí thức sớm nổi tiếng ở đất Đồng Nai – Gia Định, không màng danh lợi, suốt đời chăm lo đào tạo thế hệ môn sinh có chí, có tài, biết lấy “thảo ngay làm nghĩa cả”. Một điều nữa cũng làm cho tôi cảm phục, đó là những cống hiến của ông trong lĩnh vực y học. Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu sâu sắc y lí phương Đông và y lí Việt Nam cả về y thuật và y đức mà y đức của cụ chính là đạo cứu người lồng trong nghĩa vụ cứu dân cứu nước. Tác phẩm lớn cuối đời của Nguyễn Đình Chiểu là cuốn Ngư Tiều y thuật vấn đáp, một cuốn sách dạy đạo làm người và đạo làm thầy thuốc cứu người. Yêu nước và yêu thương con người chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm “Xưa rằng quốc thử lời khen phải Giúp sống dân ta trọn lẽ trời”. Giáo sư Lê Trí Viễn viết “Y thuật ấy là kết tinh nghề thuốc trong hằng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỉ. Yêu nước ấy có chiều sâu cá nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy ngàn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lí sống, một con đường phù hợp cho những con người yêu nước bình thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc giữ vững khí tiết không phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước…”. “Thấy người đau giống mình đau Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành. Đứa ăn mày cũng trời sanh Bịnh còn cứu đặng thuốc dành cho không”. Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu thật cao đẹp! Và chúng ta càng khâm phục hơn nữa, càng cảm nhận sâu sắc hơn nữa khi tìm hiểu thơ văn của ông. Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã làm sống lại phong trào kháng Pháp oanh liệt, bền bỉ của nhân dân Nam Bộ. Qua những bài văn tế ca ngợi những sĩ phu, những người nông dân Lục tỉnh, ta mới hiểu hết tấm lòng trung nghĩa của ông. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nhận xét về bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc như sau “Bài văn của Nguyễn Đình Chiểu làm chúng ta nhớ lại bài Đại Cáo bình Ngô củaNguyễn Trãi. Hai bài văn, hai cảnh ngộ, hai thời buổi nhưng một dân tộc. Cáo của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, ca ngợi những chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rạng rỡ nước Văn tếnghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca những người anh hùng thất thế, nhưng vẫn sống hiên ngang, sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc… muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”. Nếu như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca bi tráng sống mãi cùng lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc thì Lục Vân Tiên lại được đánh giá là “bản trường ca ca ngợi chính nghĩa”, ca ngợi “những đạo đức đáng quý trọng ở đời”. Tuy còn có ý kiến khác nhau nhưng những tác phẩm này vẫn thể hiện được cái hay, cái đẹp của về cả nội dung lẫn hình thức. Trong một thời gian khá dài từ đầu thế kỉ XX đến nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã là nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình như nói thơ, hò, vè, trong sinh hoạt văn hoá quần chúng và chính đề tài Lục Vân Tiên -Kiều Nguyệt Nga đã sớm thể hiện trên sân khấu ca kịch cải lương khi bộ môn này vừa mới ra đời trên kịch trường Nam Bộ. Gần đây đề tài này đã và đang được dựng lên thành nhạc kịch hiện đại, dựng thành phim truyện… “Trên trời có những vì sao ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”. Về quan điểm văn chương, Nguyễn Đình Chiểu tuy không nghị luận về văn chương nhưng ông có quan điểm văn chương riêng. Quan điểm “văn dĩ tải đạo” của ông khác với quan niệm của nhà Nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà Nho quan niệm Đạo là đạo của trời, còn Đồ Chiểu trên nguyên tắc đề cao đạo trời nhưng trong thực tế ông cho rằng đạo làm người đáng quý hơn nhiều. Văn chương chiến đấu vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân ái. Đó là quan niệm bao trùm văn chương Đồ Chiểu. Cái sâu sắc, thâm thuý trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chính tà minh bạch, hợp đạo lí, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hoá Việt Nam với quan điểm xem ngòi bút là vũ khí chiến đấu “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Nhìn chung, các tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống bền vững trong tình cảm nhân dân. Lý tưởng thẩm mĩ trong các nhân vậtanh hùng đã nêu bật một lối sống có văn hoá và khí phách anh hùng đặc trưng bản sắc Việt Nam. Đó là lối sống trọng đạo lí và công bằng xã hội, trong con người và căm ghét áp bức bất công. Hơn một thế kỉ qua, hiếm thấy nhà văn nào mà tác phẩm có tính phổ cập sâu rộng và có sức sống lâu bền trong đời sống văn hoá của nhân dân như vậy. Tóm lại, cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là cuộc đời của người chiến sĩ đã phấn đấu hết mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự nghiệp thơ ca của ông là minh chứng hùng hồn cho vị trí và tác dụng to lớn của văn học nghệ thuật cũng như trách nhiệm của người cầm bút trước cuộc đời. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu không chỉlà bài học cho hôm nay mà cho cả mai sau. Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là một tấm gương sáng, một tượng đài của dân tộc Việt Nam. “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” Phạm Văn Đồng. Trên đây là bài tập làm văn bài viết số 2 lớp 11, chúc các bạn làm tốt bài văn của mình! Đọc hiểu Đời thừa của Nam CaoĐọc hiểu Đời thừa của Nam Cao với bài văn mẫu phân tích Đời thừa Nam Cao hay nhất giúp các em đọc hiểu và làm bài tốt hơn. Nhân cách nhà nho chân chính của Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng[Văn mẫu 11] Phân tích nhân cách nhà nho chân chính của Nguyễn Công Trứ trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởng, tuyển chọn văn mẫu 11 hay nhất mà em có thể xem Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát[Văn mẫu 11] Phân tích nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát, tuyển chọn bài văn mẫu 11 phân tích hay nhất Viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3 Nhân cách nhà nho chân chính[Văn mẫu 11] Viết bài văn số 2 lớp 11 đề 3 Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát hoặc Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ Dàn ý hình ảnh người phụ nữ xưa qua bài Tự tình và Thương vợ[Văn mẫu 11] Lập dàn ý phân tích hình ảnh người phụ nữ xưa qua hai bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương Hình ảnh người phụ nữ xưa qua bài Tự tình và Thương vợVăn mẫu lớp 11 phân tích hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa qua hai bài thơ Tự tình II Hồ Xuân Hương và Thương vợ Trần Tế Xương. Nghị luận xã hội về lẽ ghét thương trong cuộc sống hàng ngàyHướng dẫn lập dàn bài chi tiết và bài văn mẫu nghị luận xã hội bàn về lẽ ghét thương trong cuộc sống hàng ngày - Văn mẫu lớp 11 chọn lọc IBAITAP Dựa vào các kiến thức đã học viết bài làm văn số 2. Chú ý các lỗi sai chính tả thường gặp và cách sử dụng 1 Cảm nghĩ của anh chị về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác. SGK Ngữ văn 11 tập 1- trang 53Lời giải chi tiết1. Mở bài Giới thiệu khái quát về tác giả và đoạn trích có thể nêu thêm giá trị hiện thực.2. Thân bài - Bức tranh về cuộc sống xa hoa ở phủ chúa TrịnhXa hoa, tráng lệ và không kém phần tôn nghiêm, cảnh vật đã nói lên uy quyền tột bậc của nhà với sự xa hoa, tráng lệ là cung cách sinh hoạt đầy kiểu Bức tranh trên đã cho ta thấy thái độ phê phán nhẹ nhàng mà thấm thía của tác giả và đồng thời đó cũng là dự cảm về sự suy tàn của giai cấp thống trị Lê – Trịnh thế kỉ XVIII đang tới Kết bài Khái quát lại vấn đề và liên hệ với bản 2 Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình bài II của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương. SGK Ngữ văn 11 tập 1- trang 53Lời giải chi tiết1. Mở bài Giới thiệu về hình ảnh của người phụ nữ trong văn học nói Thân bài- Cảm hứng về người phụ nữ trong thơ của Hồ Xuân Hương và Trần Tế Hình ảnh về người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa được thể hiện nổi bật qua những phẩm chất sau- Người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi, gian nan và vất vảBánh trôi nước là thân phận trôi nổi lênh đênh của người phụ nữ, họ không có quyền lựa chọn và quyết định số phận cũng như cuộc sống của mình. Đây là hình ảnh của người phụ nữ mang dáng dấp của những người phụ nữ cam chịu và nhẫn nhục trong ca dao vợ là hình ảnh người phụ nữ chịu thương chịu khó lặn lội sớm khuya và quanh năm vất vả vì gánh nặng cơm áo gạo tiền. Tự tình II là nỗi buồn về thân phận, tình duyên và hạnh phúc gia đình. Đó là những điều rất quan trọng và vô cùng có ý nghĩa đối với những người phụ Người phụ nữ với những phẩm chất tốt đẹp và khao khát yêu thương“Bánh trôi nước và Tự tình II” của Hồ Xuân Hương, hình ảnh người phụ nữ còn hiện lên nổi bật với niềm khao khát yêu thương cùng khao khát được yêu thương mạnh mẽ.“Thương vợ” hiện lên vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống Việt Nam nhân hậu, đảm đang, giàu đức hi sinh và yêu chồng thương con hết Kết bài Tổng kết, đánh giá vấn đề và nêu cảm nghĩ của bản 3 Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát hoặc Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ. SGK Ngữ văn 11 tập 1- trang 53Lời giải chi tiếtNhân cách nhà Nho trong “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá QuátVẻ đẹp của nhân cách nhà Nho được thể hiện chủ yếu ở tầm nhìn xa trông rộng của Cao Bá tư tưởng cao rộng của Cao Bá Quát được thể hiện ở chỗ ông đã nhận ra tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử và con đường công danh theo lối cũ. Từ chuyện đi trên cát mà ông liên tưởng đến chuyện lợi danh và đến chốn quan trường đây là sự liên tưởng sáng tạo mà logic. Người đi trên cát sa lầy chẳng khác nào miếng mồi công danh, bổng lộc lôi kéo con người và làm cho con người mê Bá Quát nhìn thấy con đường danh lợi đầy nhọc nhằn và chông gai tuy vẫn chưa tìm ra con đường khác nhưng ông đã thấy không thể cứ đi trên bãi cát danh lợi đó mãi được. 1. Bố cục bài học - Nội dung Các kiến thức của các văn bản đã học nội dung và hình thức Những kĩ năng cần thiết khi viết bài viết đã học - Hình thức Đảm bảo bố cục 3 phần Hình thức của bài viết rõ ràng 2. Hướng dẫn soạn văn bài Viết bài làm văn số 2 Nghị luận văn học Đề 1 Cảm nghĩ của anh chị về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh trích Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác Gợi ý a. Mở bài - Giới thiệu về tác giả Lê Hữu Trác và đoạn trích tiêu biểu Vào phủ chúa Trịnh - Khái quát giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh b. Thân bài * Giá trị hiện thực là gì? - Hiện thực Sự thật đời sống - Giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học sự phản ánh hiện thực đời sống một cách chân thực, rõ nét, tạo nên ý nghĩa cho tác phẩm. - Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là đoạn trích mang giá trị hiện thực rõ nét bởi Thượng kinh kí sự được viết theo thể kí với đặc điểm ghi chép câu chuyện, sự kiện có thật tương đối hoàn chỉnh mà tác giả trực tiếp chứng kiến. * Giá trị hiện thực được biểu hiện trong đoạn trích - Vào phủ phải trải qua nhiều cửa gác, những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau + Vườn hoa “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương” + Khuôn viên có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền lệnh - Trong phủ + Những nhà “Đại đường”, “Quyền bổng”, “Gác tía” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy. + Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng, chén bạc. - Nội cung thế tử + Phải qua năm sáu lần trướng gấm + Trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn là che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt” => Quang cảnh nơi phủ chúa vô cùng sa hoa, giàu sang và thâm nghiêm, đây là quang cảnh thường thấy trong lịch sử bởi vua chúa là những người đứng đầu cai trị đất nước * Phản ánh hiện thực cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa. Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa với rất nhiều những nhiều lễ nghi, khuôn phép, đầy quyền uy, xa hoa nhưng thiếu sinh khí cũng được tác giả phản ánh chân thực - Phủ chúa là nơi xa hoa, thâm nghiêm và cũng là nơi đầy uy quyền Tiếng quát tháo, truyền lệnh, quy tắc lễ nghi được thực hiện nghiêm ngặt + Khi tác giả được cáng vào phủ “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi” + Khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép + Lắm kẻ hầu người hạ Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh, thế tử bị bệnh có đến bảy tám thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng hầu hai bên. - Phủ chúa là nơi thiếu sinh khí + Sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi” + Phản ánh sự thật vị chúa nhỏ Trịnh Cán sống trong sự sa hoa nhưng điều cơ bản nhất lại thiếu, đó là sức sống => Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa được tác giả khắc họa chân thực phù hợp với cung cách sinh hoạt của vua chúa thời kỳ bấy giờ, đồng thời cho thấy được uy quyền và sự lộng hành của chúa Trịnh lấn át cả cung vua. => Phản ánh sự lộng hành của chúa Trịnh. * Nét nghệ thuật thể hiện thành công giá trị hiện thực của đoạn trích - Thể ký ghi chép sự thật - Ghi chép tỉ mỉ, chi tiết, chân thực sự việc - Kết hợp ghi chép sự việc một cách chính xác với bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc c. Kết bài - Khái quát lại vấn đề. Đề 2 Hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình bài II của Hồ Xuân Hương và Thương Vợ của Trần Tế Xương Gợi ý a. Mở bài Giới thiệu vấn đề nghị luận Đề tài người phụ nữ là đề tài mà không nhiều các tác giả văn học trung đại nói đến; Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa đã được khắc họa rõ nét qua các bài thơ nói trên. b. Thân bài - Luận điểm 1 Số phận người phụ nữ Việt Nam xưa + Số phận nhiều vất vả, cơ cực, nhiều lo toan, bươn chải Thương vợ. + Số phận hẩm hiu, dở dang Tự tình II. + Số phận long đong, chìm nổi, không có quyền tự định đoạt cuộc sống của mình Bánh trôi nước. - Luận điểm 2 Vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam xưa + Khẳng định dù số phận nhiều cay đắng nhưng họ vẫn giữ những phẩm chất đẹp đẽ. + Đức hi sinh, sự tần tảo. + Khao khát yêu thương, khao khát hạnh phúc chính đáng. + Thanh cao, son sắt, không bị cay đắng cuộc đời làm vấy bẩn tâm hồn. c. Kết bài Khẳng định vấn đề Mỗi nhà thơ, mỗi bài thơ có một cách thể hiện nhưng đều bày tỏ thái độ trân trọng, ngợi ca; Khẳng định tài năng, cá tính sáng tạo của hai tác giả. Đề 3 Nhân cách nhà nho chân chính trong bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát hoặc Bài ca ngất ngưỡng của Nguyễn Công Trứ a. Mở bài Giới thiệu vấn đề Thơ ca trung đại luôn đề cập tới hình ảnh những nhà nho, khẳng định nhân cách cao đẹp ở họ , điều này được thể hiện trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát. b. Thân bài * Luận điểm 1 Nhà nho nhận ra được sự tù túng, bế tắc của con đường danh lợi tầm thường. - Hình ảnh bãi cát dài. - Hình ảnh người khách bộ hành đầy bế tắc, u uất, đau khổ. * Luận điểm 2 Nhà nho thể hiện thái độ chán ghét, khinh thường, xem nhẹ danh lợi và hành động chạy theo công danh phù phiếm. c. Kết bài Khẳng định vấn đề Tài năng và tư tưởng của Cao Bá Quát – một nhà nho chân chính. Trên đây là bài Soạn văn 11 Viết bài làm văn số 2 Nghị luận văn học tóm tắt. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết Viết bài làm văn số 2 Nghị luận văn học. -Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp- Để việc học và ôn tập có hiệu quả kiến thức những văn bản thơ, văn lớp 11, học kì 2 có hiệu quả, các em có thể kết hợp việc học tập theo đề cương và tham khảo bài Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 kì 2 hay nhất mà chúng tôi giới thiệu dưới đây. Bài viết liên quan Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 kì 1 hay nhất Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 10 kì 2 hay nhất Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 12 kì 2 hay nhất Tuyển chọn bài văn mẫu lớp 5 học kì 1 hay nhất Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 6 kì 2 Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 kì 2 hay nhấtTổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 kì 2 hay nhấtI. Các bài Tập làm văn lớp 11 học kì II 1. Bài tập làm văn số 5 Nghị luận văn học- Bài văn mẫu Người xưa có câu "Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều". An/chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan điểm trên- Bài văn mẫu Cảm nhận của anh/chị về hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao- Bài văn mẫu Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù 2. Bài tập làm văn số 6 Nghị luận xã hội- Bài văn mẫu Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về bệnh vô cảm trong xã hội- Bài văn mẫu Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về bệnh thành tích- Bài văn mẫu Hãy phân tích tác hại của thái độ thiếu trung thực trong thi cử. Làm thế nào để khắc phục được thái độ đó- Bài văn mẫu Hãy viết bài tham gia cuộc vận động tìm giải pháp đảm bảo an toàn giao thông- Bài văn mẫu Theo anh/chị, làm thế nào để môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh, sạch, đẹp II. Một số bài văn mẫu lớp 11, học kì I chọn lọc theo tác phẩm tiêu biểu 1. Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương- Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương- Bài văn mẫu Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương- Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu- Bài văn mẫu Phân tích hình tượng người chí sĩ yêu nước trong bài Lưu biệt khi xuất dương- Bài văn mẫu Lí tưởng sống của Phan Bội Châu trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương- Bài văn mẫu Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương2. Bài thơ Hầu Trời- Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Hầu trời- Bài văn mẫu Cảm nghĩ về bài thơ Hầu trời của Tản Đà- Bài văn mẫu Cái tôi độc đáo của Tản Đà trong bài Hầu Trời- Bài văn mẫu Phân tích cái ngông của Tản Đà trong bài Hầu trời- Bài văn mẫu Cái tôi phóng túng, ngông nghênh và khát khao khẳng định chính mình giữa cuộc đời của Tản Đà qua bài thơ Hầu Trời- Bài văn mẫu Trí tưởng tượng phóng túng và tấm lòng ưu ái của Tản Đà qua bài thơ Hầu Trời- Bài văn mẫu Qua bài Hầu trời, chứng minh thơ Tản Đà "có thể xem như cái gạch nối giữa hai thời đại của văn học" 3. Bài thơ Vội vàng- Bài văn mẫu Cảm nhận Vội vàng của Xuân Diệu- Bài văn mẫu Phân tích Vội vàng của Xuân Diệu- Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu- Bài văn mẫu Bài thơ Vội Vàng và sức hấp dẫn của nó- Bài văn mẫu Vẻ đẹp của bức tranh cuộc sống trong bài thơ Vội vàng- Bài văn mẫu Triết lí nhân sinh trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu- Bài văn mẫu Phân tích khổ thơ đầu trong bài Vội vàng để làm sáng tỏ nhận định- Bài văn mẫu Cái tôi trữ tình trong bài thơ vội vàng- Bài văn mẫu Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng- Bài văn mẫu Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu- Bài văn mẫu Trình bày cảm nhận về đoạn thơ trong bài Sóng và Vội vàng- Bài văn mẫu So sánh Vội vàng và Sóng để thấy được khát vọng tình yêu, khát vọng sống của các nhà thơ- Bài văn mẫu Phân tích Vội vàng để làm sáng tỏ nhận định "Thế nào là thơ? Đó không phải chỉ là một nghệ thuật, đó là sự giải thoát của lòng tôi"- Bài văn mẫu Phân tích quan niệm sống "vội vàng" của Xuân Diệu- Bài văn mẫu Tâm trạng đắm say bồng bột của một lòng ham sống mãnh liệt đã được thể hiện như thế nào trong bài thơ Vội vàng- Bài văn mẫu Sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu- Bài văn mẫu Phân tích Vội vàng để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu- Bài văn mẫu Phân tích quan điểm yêu của Xuân Diệu qua Vội vàng- Bài văn mẫu Phân tích đoạn thơ sau trong bài Vội vàng "Xuân đang tới... tiễn biệt"- Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Vội vàng để thấy sự tươi trẻ trong tình yêu- Bài văn mẫu Hoài Thanh nhận xét "Đó là một hồn thơ tha thiết, rạo rực, băn khoăn". Phân tích Vội vàng để làm sáng tỏ điều đó- Bài văn mẫu Hình ảnh mùa xuân tuổi trẻ tình yêu trong Vội Vàng- Mùa Xuân Chín- Bài văn mẫu Bình luận về bức thông điệp mùa xuân của Xuân Diệu gửi đến cho người đọc qua bài thơ Vội vàng 4. Bài thơ Tràng Giang- Bài văn mẫu Phân tích Tràng giang Huy Cận- Bài văn mẫu Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang- Bài văn mẫu Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang- Bài văn mẫu Cảm nhận về bài thơ Tràng giang của Huy Cận- Bài văn mẫu Phân tích ý nghĩa nhan đề bài Tràng Giang- Bài văn mẫu Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang- Bài văn mẫu Chứng minh thiên nhiên đẹp và gợi cảm qua những bài thơ Tràng giang, Đây mùa thu tới, Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Phân tích Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của Tràng Giang- Bài văn mẫu Phân tích Tràng giang để làm rõ nhận định "Tràng giang đã tiếp nối mạch thi cảm truyền thống với sự cách tân đích thực"- Bài văn mẫu Phân tích Tràng giang để làm rõ lòng yêu tạo vật thiên nhiên trong tâm trạng cô đơn thẳm sâu và trong sáng của Huy Cận- Bài văn mẫu Những nét chính về nội dung và nghệ thuật bài thơ Tràng giang- Bài văn mẫu Chỉ ra chất cổ điển và hiện đại của bài thơ Tràng Giang- Bài văn mẫu Bức tranh Tràng giang và nỗi niềm của Huy Cận- Bài văn mẫu Bình giảng khổ thơ thứ hai bài Tràng giang- Bài văn mẫu Bình giảng khổ thơ sau trong bài thơ Tràng giang "Lơ thơ cồn nhỏ... trời rộng, bến cô liêu."- Bài văn mẫu Bình giảng khổ thơ kết thúc bài Tràng giang "Lớp lớp mây cao... hoàng hôn cũng nhớ nhà."- Bài văn mẫu Bình giảng bốn câu kết trong bài thơ Tràng giang- Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Tràng giang- Bài văn mẫu Tràng Giang mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Phân tích bài thơ để làm sáng tỏ nhận xét trên 5. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Bình giảng khổ hai trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Bình giảng khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Chứng minh thiên nhiên đẹp và gợi cảm qua những bài thơ Tràng giang, Đây mùa thu tới, Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Khung cảnh thôn Vĩ Dạ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Hình ảnh thiên nhiên và con người xứ Huế qua bài Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Phân tích cái tôi trữ tình của Hàn Mạc Tử trong bài Đây thôn Vĩ Dạ- Bài văn mẫu Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài Đây thôn Vĩ Dạ 6. Bài thơ Chiều tối- Bài văn mẫu Cảm nhận về bài thơ Chiều tối- Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Chiều tối- Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh- Bài văn mẫu Chỉ ra nét cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối- Bài văn mẫu Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ Chiều Tối- Bài văn mẫu Vẻ đẹp tâm hồn lớn của người nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối- Bài văn mẫu Phân tích bức tranh đời sống con người trong tác phẩm Chiều tối- Bài văn mẫu Phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối- Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Chiều tối và nêu cảm nghĩ về phong cách nghệ thuật trữ tình của Bác- Bài văn mẫu Phân tích hình tượng người chiến sĩ trong bài thơ Từ ấy và Chiều tối7. Bài thơ Từ ấy- Bài văn mẫu Hoàn cảnh và tâm trạng của Tố Hữu khi viết bài thơ Từ ấy- Bài văn mẫu Giới thiệu một vài nét về Tố Hữu và bài Từ ấy- Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Từ ấy- Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Từ ấy- Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Từ ấy- Bài văn mẫu Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Từ ấy- Bài văn mẫu Phân tích hình tượng người chiến sĩ trong bài thơ Từ ấy và Chiều tối- Bài văn mẫu Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ tố hữu từ từ ấy đến Việt Bắc- Bài văn mẫu Vẻ đẹp của giây phút bừng sáng lí tưởng cách mạng trong khổ thơ đầu bài thơ Từ ấy- Bài văn mẫu Niềm vui sướng, hân hoan của người chiến sĩ khi được giác ngộ cách mạng trong Từ ấy- Bài văn mẫu Trình bày sự chuyển biến trong tình cảm của cái tôi trữ tình trong bài thơ Từ ấy- Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Từ ấy để thấy tâm trạng của một thanh niên say mê lí tưởng 8. Bài thơ Lai tân- Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Lai tân- Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Lai tân 9. Bài thơ Nhớ đồng- Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Nhớ đồng- Bài văn mẫu Phân tích bài Nhớ đồng 10. Bài thơ Tương tư- Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Tương tư- Bài văn mẫu Phân tích bốn câu thơ cuối trong bài Tương tư- Bài văn mẫu Phân tích khổ thơ đầu bài Tương tư- Bài văn mẫu Diễn biến tâm trạng của chàng trai trong bài Tương tư- Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính 11. Bài thơ Mưa xuân12. Bài thơ Tôi yêu em- Bài văn mẫu Cảm nghĩ về bài thơ Tôi yêu em- Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Tôi yêu em- Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Tôi yêu em- Bài văn mẫu Tìm hiểu bài thơ Tôi yêu em của Puskin- Bài văn mẫu Tình yêu trong sáng trong bài thơ Tôi yêu em- Bài văn mẫu Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Tôi yêu em- Bài văn mẫu Cảm nhận về vẻ đẹp tình yêu trong sáng trong bài thơ Tôi yêu em 13. Bài thơ Bài thơ số 2814. Văn bản Người trong bao- Bài văn mẫu Hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Người trong bao- Bài văn mẫu Phân tích hình tượng Bê-li-cốp trong Người trong bao- Bài văn mẫu Tóm tắt truyện Người trong bao- Bài văn mẫu Tìm hiểu truyện ngắn Người trong bao- Bài văn mẫu Phân tích và nêu cảm nghĩ về Người trong bao của Sê-khốp- Bài văn mẫu Phân tích hình tượng cái bao trong truyện ngắn Người trong bao- Bài văn mẫu Tính thời sự của hình tượng người trong bao trong xã hội hiện nay- Bài văn mẫu Suy nghĩ về cái chết của nhân vật Bê-li-cốp trong truyện ngắn Người trong bao 15. Văn bản Người cầm quyền khôi phục uy quyền- Bài văn mẫu Tìm hiểu đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền- Bài văn mẫu Phân tích đoạn Người cầm quyền khôi phục uy quyền để làm sáng tỏ nhận định- Bài văn mẫu Phân tích nhân vật Phăng-tin trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền- Bài văn mẫu Vai trò của Phăng-tin trong diễn biến cốt truyện đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền- Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền- Bài văn mẫu Phân tích hai tính cách trái ngược của Gia-ve và Giăng Van Giăng trong Người cầm quyền khôi phục uy quyền- Bài văn mẫu Phân tích hình tượng nhân vật Giăng Van-giăng trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền- Bài văn mẫu Phân tích phần kết Người cầm quyền khôi phục uy quyền. Từ đó, nêu nhận xét về nghệ thuật lãng mạn 16. Văn bản Về luân lí xã hội ở nước ta- Bài văn mẫu Tấm lòng và tầm nhìn của Phan Châu Trinh qua đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta- Bài văn mẫu Phân tích bài Về luân lí xã hội ở nước ta- Bài văn mẫu Cảm nhận khi đọc về Luân lí xã hội ở nước ta 17. Văn bản Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức- Bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Tiếng mẹ đẻ- Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức- Bài văn mẫu Trình bày quan điểm về việc giữ gìn tiếng mẹ đẻ và học tập tiếng nước ngoài18. Văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác- Bài văn mẫu Phân tích bài Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác- Bài văn mẫu Tìm hiểu đoạn trích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác- Bài văn mẫu Cảm nhận khi đọc văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác 19. Văn bản Một thời đại trong thi ca- Bài văn mẫu Phân tích tinh thần thơ mới được Hoài Thanh nói đến trong Một thời đại trong thi ca- Bài văn mẫu Nội dung cốt lõi nhất của bài Một thời đại trong thi ca- Bài văn mẫu Phân tích sự thắng lợi của thơ mới trong Một thời đại trong thi ca- Bài văn mẫu Cảm nhận khi đọc văn bản Một thời đại trong thi ca Để củng cố kiến thức và rèn luyện kĩ năng phân tích, cảm nhận tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn lớp 11, bên cạnh bài Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 kì 2 hay nhất, các em học sinh có thể tham khảo thêm một số tài liệu tham khảo hữu ích khác cùng khối lớp và khác khối như Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 kì 1 hay nhất, Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 10 kì 2 hay nhất, Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 12 kì 2 hay nhất hay Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 10 kì 1 hay nhất. Từ khoá liên quan Tong hop cac bai van mau lop 11 ki 2 hay nhat, Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 kì 2 hay nhất,

bài làm văn số 2 lớp 11